Chỉ tiêu chính Tổng_điều_tra_dân_số_và_nhà_ở_năm_2019_(Việt_Nam)

Việt Nam có dân số 96.208.984 người, mật độ là 290 người/km2, tập trung ở 2 khu vực Đồng bằng sông Hồng và khu vực Đông Nam Bộ. Sau 10 năm, dân số tăng 10,4 triệu người, bình quân tăng 1,14%/năm, giảm so với giai đoạn trước. Số dân ở thành thị là 33.122.548 người, bình quân tăng 2,64%/năm. Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng nhập cư lớn nhất. Tổng số hộ gia đình là 26.870.079, tăng 4,4 triệu hộ, tỷ lệ tăng số hộ bình quân là 1,8%/năm, thấp hơn so với giai đoạn 1999 – 2009 và là thấp nhất trong 40 năm. Mỗi hộ trung bình có 3,6 người, đa số đều có nhà ở. 99,4% hộ sử dụng điện lưới, 97,4% sử dụng nước hợp vệ sinh, 88,9% sử dụng hố xí hợp vệ sinh. Trông số đó, 1.244 hộ không có nhà để ở, tương đương với 4.108 người. Thêm vào đó là 310 người lang thang cơ nhỡ, tổng cộng cả nước có 4.418 người hiện không có nhà ở.[42]

Dân số nam là 47.881.061 người (49,8%) và nữ là 48.327.923 người (50,2%), tỷ số giới tính là 99,1 nam/100 nữ. Tỷ số giới tính thay đổi theo nhóm tuổi (tuổi càng cao tỷ số càng thấp), và theo khu vực (tỷ số thành thị thấp hơn nông thôn). Mất cân bằng giới tính khi sinh đang ở mức rất cao, tỷ số giới tính khi sinh là 111,5 bé trai/100 bé gái, so với mức sinh học tự nhiên (104-106 trai/100 bé gái).[2][73] Tuổi thọ trung bình là 73,6 tuổi; nam là 71,0 tuổi, nữ là 76,3 tuổi.[42]

Tôn giáo ở Việt Nam (2019)[74]

  Không tôn giáo (86.32%)
  Công giáo (6.1%)
  Phật giáo (4.79%)
  Phật giáo Hòa Hảo (1.02%)
  Tin lành (1%)
  Khác (0.78%)

Dân số thuộc dân tộc Kinh là 82.085.826 người, chiếm 85,3%. Trong các dân tộc còn lại, 6 có trên 1 triệu người, trong khi 11 có dân số dưới 5,000 người. Việt Nam có 13,2 triệu người có tôn giáo. Cụ thể, đông nhất là Công giáo với 5,9 triệu người, theo sau là Phật giáo với 4,6 triệu người. 3,7% người trên 5 tuổi bị khuyết tật. 90,9% trường hợp tử vong một năm trước ngày lấy mốc là do nguyên nhân bệnh tật, theo sau là do tai nạn giao thông và tai nạn lao động. 88% hộ dân sử dụng phương tiện cá nhân có động cơ với mục đích sinh hoạt.[42]

77,5% dân số từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn, hơn 9% phụ nữ tuổi từ 20 đến 24 lần đầu kết hôn trước 18 tuổi. Độ tuổi trung bình kết hôn lần đầu là 25,2 tuổi, tỷ lệ ly hôn thấp, nhưng có xu hướng tăng. Tổng tỷ suất sinh ổn định ở 2,09 con/phụ nữ, xu hướng sinh hai con phổ biến, mức sinh nông thôn cao hơn thành thị.[42][75] Mức sinh cao nhất ở trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, trong khi Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp nhất. Phụ nữ có trình độ học vấn càng cao thì mức sinh càng thấp, chênh lệch về mức sinh giữa các dân tộc có xu hướng thu hẹp. Tình trạng sinh con ở tuổi chưa thành niên còn tồn tại, cao nhất ở trung du và miền núi Bắc Bộ và Tây Nguyên.[2]

Cơ cấu dân số thay đổi theo hướng tỷ trọng người phụ thuộc giảm, người trong độ tuổi lao động tăng. Số dân dưới 15 tuổi là 24%; trong độ tuổi lao động là 68,4%; trên 65 tuổi là 7,6%.[76] Như vậy, Việt Nam đang ở trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng nhưng tốc độ già hóa dân số đang có xu hướng tăng nhanh.[77][78]

Trình độ dân trí được cải thiện; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học ngoài nhà trường giảm còn 8,3%. Tuy vậy, tỷ lệ người trên 15 tuổi không có trình độ chuyên môn kỹ thuật là gần 81%. 2,05% dân số từ 15 tuổi trở lên rơi vào tình trạng thất nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra mạnh mẽ; lần đầu tiên, số người làm dịch vụ cao hơn số người trong khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản.[7][42]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tổng_điều_tra_dân_số_và_nhà_ở_năm_2019_(Việt_Nam) //www.worldcat.org/issn/0866-7322 http://baochinhphu.vn/Tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-... http://baophutho.vn/suc-khoe-doi-song/202107/dan-s... http://baotnvn.vn/tin-tuc/Xa-hoi/11357/Nam-2034-Vi... http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/xa-hoi/939859/10-na... http://consosukien.vn/cong-tac-tuyen-truyen-tong-d... http://consosukien.vn/ha-noi-ket-qua-so-bo-tong-di... http://consosukien.vn/nhung-doi-moi-quan-trong-va-... http://consosukien.vn/thuc-trang-hon-nhan-tai-viet... http://consosukien.vn/tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-...